TS. Phạm Quang Thu

Phòng Nghiên cứu Bảo vệ thực vật rừng

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam

  1. Tình hình chung và những nghiên cứu trước đây:

Lâm trường Đạ Tẻh trực thuộc Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lâm Đồng đã trồng được gần 400 ha rừng trồng, trong đó chủ yếu là rừng trồng keo tai tượng Acacia mangium và keo lá tràm Acacia auriculiformis. Hầu hết các rừng trồng ở đây đều được trồng trên các lập địa có tầng đất dày, lượng mưa trung bình hàng năm lớn, trên 2800 mm. Những khu rừng trồng keo tai tượng này có nguồn gốc từ hạt và không rõ xuất xứ. Mật độ trồng rừng chủ yếu là 2200 cây/ha, những năm đầu cây sinh trưởng tốt, tỷ lệ sống rất cao, nên rừng trồng sau 2-3 năm đã bắt đầu khép tán. Một số khu rừng keo tai tượng 4-5 tuổi, mật độ cao đã có hiện tượng chèn ép giữa các cây, xuất hiện bệnh hại, đặc biệt là bệnh hại thân, gây nứt và bong vỏ làm ngọn cây bị héo và chết, gây đổ gẫy ở vị trí nấm bệnh xâm nhiễm thường từ 1/5 đến 1/4 chiều dài của cây tính từ ngọn, với tỷ lệ bị bệnh từ 7 đến 59% trên một diện tích bị hại khoảng 118,5 ha (theo số liệu của Lâm trường Đạ Tẻh). Trước tình hình đó Lâm trường Đạ Tẻh đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh nhằm tìm giải pháp phòng trừ dịch bệnh trên các diện tích rừng hiện đang quản lý. Lâm trường đã nhận được sự giúp đỡ của các cơ quan chuyên môn và quản lý trong việc tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh.

Chi cục Kiểm dịch thực vật vùng II, thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành điều tra, lấy mẫu và có công văn trả lời xác định nguyên nhân gây bệnh cho keo tai tượng ở Đạ Tẻh là do 2 loại nấm ký sinh: Diplodia sp. và Verticillium sp. Nấm bệnh Verticillium thường gây bệnh héo cho nhiều loại cây trồng nhưng chủ yếu là các loại rau, hoa, cây ăn quả và cũng có một số loài cây rừng ở một số vùng ôn đới. Nhiệt độ thích hợp nhất cho loài nấm Verticillium albo-atrum, là đối tượng kiểm dịch ở Việt Nam, gây bệnh ở nhiệt độ 20 – 250C. Khi cây bị nhiễm bệnh, phần dưới và phía ngoài của tán lá thường bị héo, hoặc một số cành nhỏ bị chết (George N. Agrios, 1997). Nhưng triệu chứng bị bệnh các rừng keo tai tượng bị bệnh ở Đạ Tẻh khác với mô tả như trên, thường có triệu trứng chết ngọn. Đối với nấm Diplodia sp. thường gây nên các vết loét trên thân một số loài cây gỗ và thường gây mục các phiến gỗ có độ ẩm cao (George N. Agrios, 1997). Những triệu chứng này cũng xuất hiện rất ít trong các khu rừng chúng tôi tiến hành điều tra và lấy mẫu.

Mẫu bệnh cũng được viện Bảo vệ thực vật thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn xác định thì nguyên nhân gây bệnh là do nấm Phialophora bubakii (Laxa) Schol-Schwarz (theo tác giả Xuân Đức, Báo Lâm Đồng, ngày 17 tháng 5 năm 2001). Nấm Phialophora phần nhiều là các loài nấm thứ cấp, không phải là sinh vật gây bệnh chính, rất dễ gặp khi tiến hành phân lập từ các tổ chức bị bệnh (Kenneth M. Old, thông tin cá nhân).

Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong nhiều năm qua đã có chương trình hợp tác song phương với Khoa Lâm nghiệp và Lâm sản thuộc Tổ chức Khoa học và Công nghệ Ôxtrâylia nghiên cứu về bệnh cây bạch đàn và cây keo đã tổ chức nhiều đợt điều tra bệnh trên nhiều vùng trong cả nước và xác định sinh vật gây bệnh. Đối với các loài keo có 2 loại bệnh hại chính đã được phát hiện: bệnh hại lá và bệnh hại thân cành. Bệnh hại lá điển hình gồm những bệnh sau:

-Bệnh phấn trắng do nấm Oidium spp.; thường gây bệnh cho các loài keo ở vườn ươm và rừng trồng khi còn non.

-Bệnh bồ hóng do nấm Meliola spp.; thường gây bệnh cho các loài keo ở phần dưới của tán, trong điều kiện bị che sáng và ẩm ướt.

-Bệnh đốm lá do tảo Cephaleuros virescens, thường xuất hiện ở vùng ẩm ướt, tán lá dày, không thông thoáng.

-Bệnh đốm lá và cháy lá do nấm Cylindrocladium spp., nấm bệnh này gây bệnh cho nhiều loài keo ở tất cả các bộ phận của cây như rễ, thân, cành và lá.

-Bệnh đốm lá do các loài nấm gây hại: Cercospora sp., Pseudocercospora sp., Phaeotrichoconis crotalariae, Collectotrichum gloeosporioides, Pestalotiopsis spp., Phomopsis spp. và Phyllosticta sp.

Bệnh hại thân cành phát hiện được một số bệnh hại chính sau:

-Bệnh phấn hồng do nấm Corticium salmonicolor.

-Bệnh loét thân cành do nấm Botryosphaeria spp.

Như trên đã trình bày cho thấy kết quả nghiên cứu của các cơ quan chuyên môn nêu trên có sự khác biệt với những kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Để có cơ sở cho việc quản lý bệnh hại này ở hiện tại và trong tương lai, nhằm tạo ra những khu rừng trồng năng suất cao và ổn định, chúng tôi đã điều tra thu mẫu và cần xác định chính xác nguyên nhân gây bệnh. Bài viết này trình bày trình bày kết quả điều tra, giám định và một số định hướng giảm thiểu ảnh hưởng của bệnh.

2. Phương pháp nghiên cứu:

-Định loại nấm thông qua việc mô tả triệu trứng của bệnh ngoài hiện trường. Quan sát và mô tả tổ chức bị bệnh bằng kính lúp cầm tay. Thu thập mẫu bệnh điển hình. Quan sát sợi nấm, cơ quan sinh sản của nấm tại phòng thí nghiệm bằng kính hiển vi soi nổi và kính hiển vi quang học. Trong trường hợp cần thiết tiến hành phân lập nấm bệnh trên môi trường PDA. Từ những kết quả nghiên cứu về hình thái, giải phẫu của nấm bệnh đối chiếu với các chuyên khảo về bệnh hại các loài keo nhiệt đới ở Ôxtrâylia, Đông Nam Châu á và ấn Độ của Kenneth M. Old và cộng sự năm 2000.

-Đánh giá tỷ lệ bị bệnh thông qua ô tiêu chuẩn 10000 m2.

3. Kết quả nghiên cứu:

3.1. Mô tả triệu chứng của bệnh:

Bệnh do nấm ký sinh vỏ của cành cây và thân cây. Bệnh thường xuất hiện vào đầu mùa mưa, dấu hiệu đầu tiên bằng mắt thường cũng dễ dàng nhận thấy có những đám màu trắng xuất hiện trên bề mặt vỏ thân cây hay cành cây ở phía bị che bóng thường ở vị trí từ 1/5 đến 1/4 chiều cao của cây tính từ ngọn. Quan sát bằng kính lýp cầm tay tổ chức bị bệnh này có nhiều sợi nấm nhỏ, mịn màu trắng mọc trên bề mặt của vỏ cây. Giai đoạn ngắn sau đó, các sợi nấm ăn sâu vào lớp vỏ, hình thành nên những mụn rất nhỏ màu hồng da cam trên bề mặt vỏ cây nơi bị nấm xâm nhiễm do các sợi nấm bất thụ, giá đảm và bào tử hữu tính của nấm. Đếm cuối mùa mưa, lớp màu hồng da cam này nhạt dần màu trở nên màu trắng bẩn, vỏ cây bị nứt ra, để lộ một phần gỗ, sợi nấm xâm nhiễm vào thân, cành cây toàn bộ lá của của cây từ chỗ bị nấm xâm nhiễm lên đến ngọn bị héo, chết có màu nâu và không rụng ngay. Đỉnh ngọn cây bị chết, đổ gẫy, từ chỗ gãy, cây mọc chồi mới. Những lô bị bệnh nặng, mùa mưa tiếp theo những chồi mới này lại tiếp tục bị bệnh, thân cây biến dạng, có nhiều chồi ngọn, dẫn đến sinh trưởng chậm hoặc ngừng sinh trưởng. Trường hợp nặng toàn bộ cây bị chết.

3.2. Một số đặc điểm của cơ quan sinh sản nấm:

Quan sát trên kính hiển vi quang học, giá đảm có 4 bào tử đảm, kích thước của giá đảm như sau: chiều rộng 13,0mm, chiều dài 60,0 mm, bào tử đảm có hình oval hơi nhọn một đầu, kích thước 6,0-7,5 x 9,1-11,2 mm.

3.3. Kết quả định loại:

Trên cơ sở triệu trứng của bệnh, hình dạng và kích thước giá đảm và bào tử đảm, nấm gây bệnh được xác định là:

-Tên bệnh: Bệnh phấn hồng.

-Loài nấm: Corticium salmonicolor Berk. & Br.; Tên khác: Pellicularia salmonicolor (Berk. & Br.) Dastur.

-Tên chi: Corticium Persoon.

-Họ: Corticiaceae

-Bộ: Aphyllophorales

-Lớp: Hymenomycetes.

-Ngành: Nấm đảm Basidiomycotina.

3.4. Đặc điểm về nấm bệnh:

Cây chủ: Nấm Corticium salmonicolor là một loài nấm ký sinh và gây bệnh với nhiều loài cây chủ đặc biệt là các loài cây công nghiệp nhiệt đới như: cây ca cao, cây chè, cây cà phê, cây điều, cây cao su và rất nhiều loài cây rừng như: cây bạch đàn, cây keo…(Browne, 1968). Loài nấm này thường xâm nhiễm vào cành và thân cây xuyên qua lớp vỏ, phá huỷ tầng libe làm chết cành và ngọn cây từ vị trí nấm xâm nhiễm. Cây ở mọi lứa tuổi đều có thể bị nấm xâm nhiễm.

Phân bố: Nấm gây bệnh mạnh ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới và những phần ấm hơn của vùng ôn đới.

Bệnh dịch học: Bệnh phấn hồng thường gây bệnh cho cây trồng ở những vùng có lượng mưa cao và xuất hiện vào mùa mưa. Nấm bệnh lây lan và xâm nhiễm vào cây ở cả 2 giai đoạn: giai đoạn bào tử đảm hữu tính (Basidiospore) và bào tử bụi (conidia) của giai đoạn vô tính thông qua gió và nước. Quá trình hình thành và nảy mầm của bào tử trong điều kiện ẩm ướt.

3.5. ảnh hưởng của dịch bệnh tới cây trồng:

Theo những nghiên cứu của nhiều tác giả ở nhiều nước khác nhau trên thế giới, Malaysia, Indonesia và ấn Độ như: Chin năm 1990, Lee năm 1993, Hadi và Nuhama năm 1997, Sharma và Florence năm 1997, bệnh phấn hồng do nấm Corticium salmonicolor nhìn chung được xem như ít khi gây nên hậu quả làm cây bị chết. Sự thiệt hại lớn nhất là làm biến dạng hình dạng thân cây do cây bị gãy ngọn từ vị trí nấm xâm nhiễm vào thân cây của nấm. Tuy nhiên, một số những nghiên cứu mới đây cho thấy khi cây bị nhiễm bệnh, không được chăm sóc và phòng chống kịp thời, cây trồng bị tái xâm nhiễm nhiều lần, cây có thể bị chết.

Theo số liệu điều tra trên ô tiêu chuẩn tại Đạ Tẻh cho thấy tỷ lệ cây bị nhiễm bệnh (gãy ngọn)92%. Tình trạng hiện nay, tất các các cây gãy ngọn đều đã mọc chồi trở lại. Một số cây bị tái xâm nhiễm, chồi ngọn lại bị chết, tỷ lệ 5%. Trong trượng hợp nặng, đối với những cá thể quá mẫn cảm, vỏ của cây do nấm xâm nhiễm làm chết và bong ra quá nhiều, cây có thể bị chết song với tỷ lệ không lớn từ 15-20% số cây trong ô tiêu chuẩn.

3.6. Phòng trừ và quản lý dịch hại:

Khi bệnh được phát hiện sớm, việc phòng trừ bệnh cũng đạt được hiệu quả cao bằng việc chọn đúng thuốc diệt nấm. Theo kết quả nghiên cứu của Lim và Khoo năm 1985 ở Malaysia, sử dụng dung dịch Bordeaux có thành phần và tỷ lệ như sau: CuSO4:CaO:H2O = 1:2:10rất có hiệu quả khi rừng cao su, vườn xoài bị nhiễm bệnh phấn hồng.

Tuy nhiên việc phòng trừ các loại dịch bệnh nói chung và bệnh phấn hồng nói riêng cho các cây rừng thường có chi phí lớn. Một số giải pháp sau đây có thể được áp dụng:

-Điều tra thường xuyên phát hiện sớm các triệu chứng của bệnh. Khi bệnh mới xuất hiện, tỷ lệ bị bệnh còn ít, xử dụng thuốc Bordeaux nồng độ 1% phun hoặc quét lên các vết bị bệnh.

-Chặt toàn bộ cây bị chết hoặc nhiễm bệnh nặng đưa ra khỏi rừng để tiêu diệt nguồn xâm nhiễm.

-Không trồng các dòng quá mẫn cảm với bệnh gần các lô trồng cây công nghiệp như điều và cao su.

-Chiến lược lâu dài và mang lại hiệu quả kinh tế cao là tuyển chọn các dòng, xuất xứ có khả năng kháng bệnh trồng trên các lập địa có nguy cơ mắc bệnh cao, đặc biệt những vùng có lượng mưa trên 2000 mm năm.